Khảo sát thuỷ động lực học giếng khoan là một công việc có vai trò cực kỳ quan trọng, giúp cung cấp số liệu để phục vụ cho việc kiểm soát và tối ưu hoá chế độ khai thác trong suốt quá trình vận hành và khai thác các mỏ dầu khí.
Hiện tại, hầu hết các đối tượng khai thác của Vietsovpetro đang ở giai đoạn khai thác thứ sinh và tận thu hồi, năng lượng vỉa giảm thấp. Do đó, việc thực hiện khảo sát thuỷ động lực học bằng phương pháp truyền thống, dừng giếng trên bề mặt, bên cạnh chịu ảnh hưởng bởi các hiệu ứng thông thường (tích luỹ dọc thành giếng khoan - Wellbore Storage) còn xuất hiện thêm các hiệu ứng tiêu cực khác như tách pha - Gas Hump… Các hiệu ứng này thường xuyên xảy ra với tần xuất ngày càng cao, tỉ lệ thuận với mức độ suy giảm của áp suất vỉa, ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng số liệu và kết quả minh giải tài liệu khảo sát thuỷ động lực học. Trong nhiều trường hợp, việc thu thập thông tin về các thông số thành hệ và vỉa bằng phương pháp truyền thống là bất khả thi.
Để giải quyết vấn đề trên, cần xem xét thực hiện khảo sát thuỷ động lực học giếng bằng phương pháp mới, “dừng giếng tại đáy” nhờ thiết bị Shut - In Tool (SIT). “Dừng giếng tại đáy” là một thuật ngữ mô tả việc đóng giếng bằng cách sử dụng các thiết bị phù hợp có khả năng ngăn chặn sự lưu thông của các lưu chất trong giếng. Việc làm này có khả năng giảm thiểu hoặc triệt tiêu ảnh hưởng của hiệu ứng tích lũy dọc thành giếng khoan và hiệu ứng phân tách pha lên tài liệu đo.
SIT (hoặc SST) là một thiết bị cơ điện tử có cấu tạo chính gồm một piston có thể di chuyển tịnh tiến dọc thân máy nhằm chuyển đổi trạng thái đóng/mở các cửa van theo chương trình được cài đặt trước trong bộ điều khiển. SIT có thể đặt ở một vị trí bất kì trong lòng giếng. Khi đã được đặt cố định, mạch điện tử sẽ kích hoạt motor, dẫn động cho trục của piston di chuyển tới vị trí “đóng van” hoặc “mở van”, cho phép người dùng đóng giếng hoặc mở giếng bằng cách chặn hoặc không chặn dòng chảy của lưu chất trong giếng.
Hình 1: Nguyên lý hoạt động của thiết bị Shut – In Tool
Thiết bị SIT đã được thử nghiệm tại các giếng khai thác của Vietsovpetro và cho kết quả rất tích cực: chất lượng tài liệu đo đã được nâng cao rõ rệt khi các hiệu ứng tiêu cực (hiệu ứng tích luỹ dọc thành giếng, hiệu ứng tách pha…) đã được loại bỏ, kết quả minh giải (giá trị độ thấm, skin…) có độ tin cậy cao hơn, thời gian phải đóng giếng giảm 24 giờ (chỉ còn 48 giờ thay vì 72 giờ khi đóng giếng tại bề mặt). Những thành công trong việc thử nghiệm thiết bị SIT ở điều kiện giếng của Vietsovpetro đã mở ra một trang mới trong công tác khảo sát thủy động lực học giếng khoan. Chúng ta không chỉ sở hữu một giải pháp hoàn thiện để nghiên cứu các thông số giếng trong điều kiện áp suất vỉa giảm thấp mà còn nâng cao năng suất của công việc khảo sát nhờ khả năng rút ngắn thời gian đóng giếng và triển khai đồng thời trên nhiều giếng của thiết bị SIT.
Dựa trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết và kết quả tích cực khi tiến hành thực nghiệm, lãnh đạo XNKT nói riêng và Vietsovpetro nói chung đã cho phép triển khai đầu tư các thiết bị SIT để ứng dụng và thực tiễn sản xuất.
Nhóm tác giả: Đoàn TN XNKTDK